Nguy cơ phù mạch khi dùng ACEI và ARB:

Thuốc ức chế men chuyển ACE được cho là gây phù mạch do tích tụ bradykinin. Phù mạch do nhóm thuốc ACEI rất hiếm gặp, xảy ra ở khoảng 0,1% đến 0,7% bệnh nhân được điều trị bằng nhóm thuốc này và chống chỉ định ở những bệnh nhân có tiền sử bị phù mạch do sử dụng nhóm ACEI.

Nguy cơ phát triển phù mạch thấp hơn khi dùng thuốc chẹn thụ thể angiotensin II (ARB) so với thuốc ức chế men chuyển ACE. Một số nghiên cứu cho thấy nguy cơ phù mạch khi dùng ARB tương tự như các thuốc chống tăng huyết áp khác (ví dụ: thuốc chẹn beta) và giả dược.  Cơ chế gây phù mạch do ARB vẫn chưa được biết rõ.

Việc sử dụng ARB không chống chỉ định ở những người đã từng bị phù mạch khi dùng thuốc ức chế men chuyển ACE. Tình trạng phù mạch tái phát sau khi chuyển sang dùng ARB được báo cáo xảy ra ở 1,5% bệnh nhân.

Sacubitril + valsartan chống chỉ định ở những bệnh nhân có tiền sử dùng thuốc ức chế men chuyển ACE hoặc thuốc ức chế thụ thể ARB gây phù mạch.

Phù mạch ruột – một biểu hiện cần lưu ý

Phù mạch cũng có thể xảy ra ở mô niêm mạc ruột hoặc kèm theo phù mạch ở vị trí khác.  Phù mạch ruột có thể không được phát hiện và báo cáo đầy đủ vì nó ít rõ ràng hơn so với khi xảy ra ở lưỡi, mặt và đường hô hấp trên.

Bệnh nhân cũng có thể có các triệu chứng đường tiêu hóa không đặc hiệu, chẳng hạn như đau bụng, tiêu chảy, buồn nôn hoặc nôn. Vì nhiều tình trạng và bệnh lý khác cũng có những triệu chứng tương tự, nên việc chẩn đoán phù mạch ruột có thể gặp nhiều khó khăn.

Có báo cáo về việc bệnh nhân phải trải qua các thủ thuật không cần thiết nhằm loại trừ các nguyên nhân có thể khác. Một số bệnh nhân cũng báo cáo các triệu chứng của họ tự giới hạn, khỏi trong vòng 2 đến 3 ngày ngay cả khi không ngừng thuốc nghi ngờ. Bệnh nhân có thể bị phù mạch ruột trong nhiều năm trước khi được chẩn đoán.

Xem xét phù mạch ruột ở những bệnh nhân đang sử dụng thuốc ức chế men chuyển ACE hoặc ARB và có:

ü Bị đau bụng có hoặc không có các triệu chứng đường tiêu hóa khác

ü Chụp cắt lớp vi tính hoặc siêu âm bụng hoặc khung chậu cho thấy thành ruột dày lên có hoặc không có cổ trướng

ü Có mức chất ức chế C1-esterase bình thường

ü Các triệu chứng sẽ hết sau khi ngừng thuốc ức chế men chuyển ACE hoặc ARB.

v   Nếu chẩn đoán phù mạch ruột, hãy ngừng dùng thuốc nghi ngờ.

Báo cáo trường hợp ở New Zealand

Từ ngày 1 tháng 1 năm 2010 đến ngày 30 tháng 9 năm 2025, cơ sở dữ liệu Dược cảnh giác của New Zealand đã nhận được:

ü 278 báo cáo trường hợp phù mạch trong đó thuốc nghi ngờ là thuốc ức chế men chuyển ACE

ü 26 trường hợp được báo cáo về phù mạch trong đó loại thuốc nghi ngờ là ARB.

Cho đến nay, chưa có trường hợp phù mạch ruột nào được báo cáo ở New Zealand do sử dụng những loại thuốc này.

Tài liệu tham khảo

https://www.medsafe.govt.nz/profs/PUArticles/December2025/ACEIs-and-ARBs-intestinal-angioedema.html

 

Người tổng hợp: DS Vũ Tú Anh – Tổ Dược lâm sàng – Khoa Dược